Các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu
Tại Điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ 2005 quy định hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, cụ thể rằng các hành vi dưới đây được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, bao gồm:
- Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng với hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó;
- Sử dụng dấu hiệu trùng với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;
- Sử dụng dấu hiệu tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hoá, dịch vụ trùng, tương tự hoặc liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;
- Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng hoặc dấu hiệu dưới dạng dịch nghĩa, phiên âm từ nhãn hiệu nổi tiếng cho hàng hoá, dịch vụ bất kỳ, kể cả hàng hoá, dịch vụ không trùng, không tương tự và không liên quan tới hàng hoá, dịch vụ thuộc danh mục hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hoá hoặc gây ấn tượng sai lệch về mối quan hệ giữa người sử dụng dấu hiệu đó với chủ sở hữu nhãn hiệu nổi tiếng.
Hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu và hướng dẫn yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu (Hình ảnh từ Internet)
Hướng dẫn yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu
Ngày 23 tháng 8 năm 2023, Chính phủ ban hành Nghị định 65/2023/NĐ-CP hướng dẫn Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và quản lý Nhà nước về sở hữu trí tuệ.
Tại Điều 77 Nghị định 65/2023/NĐ-CP có giải thích yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, cụ thể rằng:
- Yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là dấu hiệu gắn với hàng hóa, bao bì, giấy tờ giao dịch, biển hiệu, phương tiện dịch vụ, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được bảo hộ.
- Căn cứ để xem xét yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu là phạm vi bảo hộ nhãn hiệu, bao gồm:
+ Mẫu nhãn hiệu
+ Danh mục hàng hóa, dịch vụ xác định tại Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hoặc Giấy xác nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế bảo hộ tại Việt Nam hoặc trích lục sổ đăng ký quốc gia về sở hữu công nghiệp hoặc thông qua việc đánh giá chứng cứ chứng minh nhãn hiệu nổi tiếng.
Để xác định dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu hay không, phải so sánh dấu hiệu đó với nhãn hiệu, đồng thời so sánh hàng hóa, dịch vụ mang dấu hiệu đó với hàng hóa, dịch vụ thuộc phạm vi bảo hộ.
Chỉ có thể khẳng định có yếu tố xâm phạm khi đáp ứng cả 02 điều kiện sau đây:
+ Dấu hiệu bị nghi ngờ trùng/tương tự đến mức nhầm lẫn với nhãn hiệu thuộc phạm vi bảo hộ: nếu có cùng cấu tạo và cách thức thể hiện; có một số thành phần hoàn toàn trùng/tương tự đến mức không dễ dàng phân biệt về cấu tạo, phát âm, phiên âm, ý nghĩa, cách trình bày, màu sắc đối và việc sử dụng dấu hiệu có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng;
+ Hàng hóa, dịch vụ mang dấu hiệu bị nghi ngờ trùng/tương tự về bản chất, chức năng, công dụng và đồng thời có cùng kênh tiêu thụ; hoặc có mối liên quan với nhau về bản chất/chức năng hoặc phương thức thực hiện.